Dịch vụ Xúc tiến Thương mại

Xúc tiến thương mại là gì? Dịch vụ xúc tiến thương mại tai Wisematch

1. Khái niệm dịch vụ xúc tiến thương mại

Dịch vụ xúc tiến thương mại hình thành do nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Thương nhân có thể tự tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội thương mại với nhiều cách thức: giảm giá, phát quà tặng, tìm cơ hội tăng cường mạng lưới đại lý… cũng có thể thuê thương nhân khác thực hiện việc giới thiệu, khuếch trương về hàng hoá, dịch vụ… để thông qua đó, tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho mình và phải trả tiền cho việc thuê đó. Trong pháp luật thương mại, dịch vụ xúc tiến thương mại được hiểu là hoạt động kinh doanh, theo đó, thương nhân thực hiện một hoặc một số hành vi nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội thương mại cho thương nhân khác để kiếm lời.

Theo Wikipedia định nghĩa: “Xúc tiến thương mại (tiếng Anh: trade promotion) là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại”.

Vậy, có thể thấy rằng những tổ chức hoặc cá nhân coi xúc tiến thương mại là một nghề nghiệp thì có thể biến hoạt động xúc tiến thương mại thành nghề dịch vụ xúc tiến thương mại. Dịch vụ xúc tiến thương mại được thực hiện với mục đích của hoạt động xúc tiến thương mại nhằm thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Hoạt động này hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của thương nhân hiệu quả hơn.

Xúc tiến thương mại - Sở Công Thương Nam Định

2. Cho ví dụ về dịch vụ xúc tiến thương mại

Ví dụ: thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo, dịch vụ hội chợ, triển lãm… cụ thể:

+ Pháp nhân A tổ chức dịch vụ xúc tiến thương mại với chủ đề “Đặc sản tây bắc với người dân thủ đô” – Tại một địa điểm triển lãm cụ thể tại thủ đô Hà Nội. Hoạt động này mang tính thương mại, giới thiệu sản phẩm địa phương và là cơ hội để kết nối cung cầu trong hoạt động kinh doanh

+ Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam tổ chức “Cơ hội xuất khẩu vải thiều tại thị trường Nhật Bản” tại địa điểm xác định nào đó trên lãnh thổ Việt Nam hoặc Nhật Bản. Hoạt động này thường mang tính phi lợi nhuận dựa trên kinh phí hỗ trợ từ các tổ chức, ngành nghề hoặc do các doanh nghiệp kinh doanh tài trợ.

Các hoạt động hoặc dịch vụ xúc tiến thương mại được thực hiện dưới nhiều hình thức, cách thức khác nhau nhưng với một mục đích chung là kết nối giữa cung và cầu trong hoạt động kinh doanh, qua đó mở ra các cơ hội hợp tác và đầu tư hiệu quả nhất.

Dịch vụ xúc tiến thương mại là gì ? Cho ví dụ dịch vụ xúc tiến thương mại

3. So sách quan hệ xúc tiến thương mại và dịch vụ xúc tiến thương mại

So với quan hệ xúc tiến thương mại do thương nhân tự mình thực hiện, quan hệ kinh doanh dịch vụ xúc tiến thương mại có một số điểm tương đồng và khác biệt cơ bản. Tuy nhiên, dù được thực hiện theo phương thức nào, việc xúc tiến thương mại cũng sẽ giống nhau ở ba điểm chính, đó là:

+ Chủ thể thực hiện xúc tiến thương mại đều là thương nhân. Xúc tiến thương mại có bản chất là hành vi hỗ trợ cho hoạt động thương mại của thương nhân, do đó nó được thương nhân tiến hành như một nhu cầu tất yếu để khuyến khích phát triển thương mại. Các cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân, do không hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên nên không có nhu cầu hoạt động xúc tiến thương mại và không trở thành chủ thể của quan hệ đó. Trường hợp thực hiện xúc tiến thương mại theo hợp đồng dịch vụ, chủ thể thực hiện xúc tiến thương mại phải là thương nhân, có đăng ký kinh doanh dịch vụ xúc tiến thương mại.

+ Cách thức xúc tiến thương mại được thực hiện ữong cả hai trường hợp đều là các lã thuật thuyết phục khác nhau, nhằm liên hệ với thị trường mục tiêu và công chúng như khuyến mại, quảng cáo, hội chợ, triển lãm thương mại…

+ Các hoạt động xúc tiến thương mại đều có giới hạn. Thương nhân thực hiện xúc tiến thương mại trong khuôn khổ pháp luật, không được xâm hại lợi ích của nhà nước, của thương nhân khác và của người tiêu dùng.

Hoạt động xúc tiến thương mại do thương nhân tự thực hiện và hoạt động xúc tiến thương mại thực hiện thông qua hợp đồng dịch vụ khác nhau ở hai điểm cơ bản:

Một là: về mục đích hoạt động xúc tiến thương mại. Thương nhân tự tổ chức thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích tìm kiếm cơ hội thương mại cho mình. Trong khi đó thương nhân kinh doanh dịch vụ xúc tiến thương mại lại nhằm tìm kiếm cơ hội thương mại cho thương nhân khác và tìm kiếm lợi nhuận cho mình thông qua cách thức kinh doanh dịch vụ đó.

Hai là: về cơ sở tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại. Nhu cầu cạnh tranh, tăng cơ hội phát triển thương mại là cơ sờ kinh tế để thương nhân xây dựng và triển khai kế hoạch xúc tiến thương mại cho mình. Quá trình này được thực hiện dựa trên quyền tự do hoạt động xúc tiến thương mại mà luật pháp ghi nhận. Như vậy, có thể nói, nhu cầu cạnh tranh, tăng cường cơ hội phát triển thương mại và quyền tự do hoạt động xúc tiến thương mại là cơ sở kinh tế và pháp lý để thương nhân tự mình tiến hành xúc tiến thương mại. Đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ xúc tiến thương mại, cơ sở kinh tế tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại (cho thương nhân khác) là kế hoạch kinh doanh của thương nhân, bởi vì dịch vụ xúc tiến thương mại chính là ngành nghề kinh doanh mà thương nhân lựa chọn. Cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại là hợp đồng dịch vụ được ký kết giữa thương nhân kinh doanh dịch vụ và thương nhân thuê dịch vụ, trong đó có thỏa thuận rõ về hình thức xúc tiến thương mại, thời gian thực hiện, nội dung công việc cân thực hiện, thù lao dịch vụ… Tất nhiên, cho dù việc xúc tiến thương mại được thực hiện vì lợi ích tìm kiếm cơ hội thương mại cho người khác, thương nhân kinh doanh dịch vụ xúc tiến thương mại trong quá trình hành nghề vẫn phải thực hiện theo quy định pháp luật hiện hành về xúc tiến thương mại, tôn trọng lợi ích của nhà nước, của thương nhân khác và của người tiêu dùng.

Xúc tiến bán hàng là gì? 5 Phương tiện xúc tiến bán hàng hiệu quả!

4. Chủ thể hoạt động xúc tiến thương mại là ai ?

Dưới góc độ kinh tế, có rất nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động xúc tiến thương mại. Có thể chia các chủ thể này thành ba nhóm: Chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại và các doanh nghiệp.

Chính phủ tham gia vào hoạt động xúc tiến thương mại thông qua các hoạt động quản lý nhà nước và trực tiếp thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại như xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động xúc tiến thương mại, thành lập các cơ quan thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại như: Cục xúc tiến thương mại, các cơ quan đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài, các Trung tâm, phòng xúc tiến thương mại ở các địa phương, xây dựng và tổ chức các mạng lưới thông tin quốc gia đáp ứng yêu cầu thông tin thương mại, hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hội trợ triển lãm thương mại ở nước ngoài…

Các tổ chức xúc tiến thương mại (TPOs – Trade Promotion Organizations) tham gia vào hoạt động xúc tiến thương mại bao gồm: các tổ chức chính phủ, các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng… Các tổ chức này phối hợp hoạt động với cơ quan Chính phủ và các doanh nghiệp trong mạng lưới xúc tiến thương mại, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, đào tạo nguồn nhân lực cho các hoạt động xúc tiến thương mại…

Chính phủ và các tổ chức xúc tiến thương mại thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nói chung, nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Trong quan hệ thương mại quốc tế, các biện pháp xúc tiến thương mại do Nhà nước, các tổ chức phi chính phủ tiến hành có ý nghĩa hỗ trợ các doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của nước ngoài, tăng cường thương mại xuất khẩu của quốc gia.

Thương nhân là chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá và cơ hội cung ứng dịch vụ cho mình. Pháp luật ghi nhận quyền tự do hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân Việt Nam, thương nhân nước ngoài (thông qua chi nhánh của họ mở tại Việt Nam).

Trong khuôn khổ của pháp luật thương mại, thương nhân là chủ thể chủ yếu tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại, bao gồm hai loại:

– Thương nhân kinh doanh trong các ngành, lĩnh vực khác nhau tự hoạt động xúc tiến thương mại cho mình. Trường hợp này, thương nhân thực hiện xúc tiến thương mại trong khuôn khổ quyền tự do kinh doanh, tự do hoạt động xúc tiến thương mại mà không cần phải đăng ký để có quyền thực hiện các hoạt động đó.

– Thương nhân kinh doanh dịch vụ xúc tiến thương mại. Trong trường hợp này, dịch vụ xúc tiến thương mại trở thành một dịch vụ thương mại, được thương nhân lựa chọn để kinh doanh. Do vậy, điều kiện để thương nhân hoạt động xúc tiến thương mại một cách hợp pháp là phải đăng ký kinh doanh để thực hiện các dịch vụ xúc tiến thương mại đó.

Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)

Để lại bình luận

Đã thêm vào giỏ hàng

0 Scroll
Messenger Messenger
Google Map Google Map
Zalo Zalo
Gọi ngay Gọi ngay